Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Hợp tác xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên gặt mùa (1954) _Nguồn: hochiminh.vn
Những chặng đường lịch sử công tác dân vận của Đảng: 90 năm gắn bó mật thiết với nhân dân
Tháng 10-1999, nhân kỷ niệm 50 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo “Dân vận”(1), theo đề nghị của Ban Dân vận Trung ương, Bộ Chính trị khóa VIII đã đồng ý lấy ngày 15-10-1930 là ngày truyền thống công tác dân vận của Đảng, quyết định chọn ngày 15 tháng 10 hằng năm là Ngày Dân vận của cả nước để đẩy mạnh việc học tập và thực hiện những lời dạy của Bác(2). Trải qua 90 năm xây dựng và trưởng thành, công tác dân vận luôn là một bộ phận quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng, góp phần bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, từ những trải nghiệm qua nhiều năm bôn ba tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra nguồn gốc sức mạnh của Đảng là từ sức mạnh to lớn của nhân dân, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Những năm tháng đi khắp các châu lục, như châu Âu, châu Á, châu Mỹ, châu Phi, người thanh niên cần lao vô sản Nguyễn Ái Quốc đã bắt tay vào công việc vận động quần chúng yêu nước, thành lập Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp năm 1917, thay mặt Hội gửi tới Hội nghị Véc-xây bản Yêu sách của nhân dân An Nam tháng 6-1919, gây chấn động chính trường Pháp và thế giới; cùng với một số nhà hoạt động cách mạng châu Phi thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp năm 1921, xuất bản báo Người cùng khổ; tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức châu Á năm 1925, xuất bản tác phẩm nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp; thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu (Trung Quốc) năm 1925, trực tiếp huấn luyện những chiến sĩ trung kiên làm hạt nhân đi sâu vào quần chúng tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin, gieo niềm tin cách mạng và tinh thần đoàn kết trong các giai tầng xã hội qua tác phẩm Đường Cách mệnh năm 1927, tạo nên bước ngoặt lịch sử bằng việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930. Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã xác định những nội dung cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của dân tộc và nguyện vọng tha thiết của đại đa số nhân dân, đề ra sách lược thu hút, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân trở thành lực lượng cách mạng đi theo lá cờ tiên phong của Đảng.
Trước tình hình các tổ chức quần chúng chỉ có 2.747 hội viên ở Bắc Kỳ, 327 hội viên ở Nam Kỳ(3), ngay sau Hội nghị thành lập, đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam ra Lời kêu gọi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và toàn thể đồng bào bị áp bức, bóc lột, Người nhấn mạnh: “Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta. Từ nay anh chị em chúng ta cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo Đảng”(4). Xác định tập hợp lực lượng quần chúng là nhiệm vụ chính trị cấp thiết để đối phó với “khủng bố trắng” và chính sách mị dân của chính quyền thuộc địa, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (từ ngày 14 đến 31-10-1930 tại Hồng Kông, Trung Quốc) đã thông qua các nghị quyết về công nhân vận động, nông dân vận động, cộng sản thanh niên vận động, phụ nữ vận động, quân đội vận động, vấn đề cứu tế và đồng minh phản đế. Nghị quyết Hội nghị xác định rõ: “Trong các Đảng bộ thượng cấp (từ thành và tỉnh ủy trở lên) phải tổ chức cả các ban chuyên môn về các giới vận động”(5), đặt nền tảng cho sự ra đời nhanh chóng hệ thống ban chuyên môn và đội ngũ cán bộ về các giới vận động của Đảng, bao gồm Công vận, Nông vận, Thanh vận, Phụ vận, Quân đội vận, Mặt trận phản đế làm nhiệm vụ tổ chức, tập hợp lực lượng, giáo dục, vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào đấu tranh chống áp bức, bóc lột, đòi dân sinh, dân chủ ở nhiều nơi dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế đồng minh, hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất, thể hiện nhận thức của Đảng từ nhấn mạnh đoàn kết giai cấp đến nâng cao tầm quan trọng của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong cách mạng giải phóng dân tộc.
Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh - đỉnh cao của phong trào cách mạng 1930 - 1931 do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo _Nguồn: Tư liệu TTXVN
Những cán bộ, đảng viên lớp đầu tiên đã thực hiện “vô sản hóa”, “ba cùng” với nhân dân, tuyên truyền, giác ngộ và thành lập các tổ chức quần chúng đoàn kết xung quanh Đảng, tạo nên sức mạnh và động lực cho cách mạng theo phương châm “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Cao trào cách mạng năm 1930 - 1931, với đỉnh cao của phong trào Xô-viết Nghệ - Tĩnh là mốc son sáng chói, đánh dấu việc lần đầu tiên một đảng cách mạng, dù còn rất non trẻ, đã thể hiện vai trò, bản lĩnh, uy tín, sức chiến đấu và khả năng to lớn trong việc lãnh đạo, đoàn kết, huy động quần chúng nhân dân, như lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là “Một phong trào quần chúng mạnh lớn xưa nay chưa từng có ở nước ta”, “chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam”(6). Trong những năm tháng khó khăn, gian khổ nhất khi chính quyền thực dân thi hành “khủng bố trắng”, sử dụng mọi thủ đoạn dã man, tàn bạo nhằm đàn áp, triệt tiêu, cắt đứt mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng, cơ sở cách mạng thì chính niềm tin yêu tuyệt đối của nhân dân, sự hy sinh, che chở, bảo vệ của nhân dân đã làm nên sức mạnh giúp Đảng kiên cường, vững vàng vượt lên những mất mát, tổn thất, đối mặt mọi thách thức cam go, giữ vững được niềm tin của nhân dân vào tương lai cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng. Chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng về mở rộng đại đoàn kết toàn dân, tăng cường công tác mặt trận, tạo nên bước phát triển mới trong xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, bao gồm nhân sĩ, trí thức, tư sản dân tộc và cả ngoại kiều,... bằng các hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp thúc đẩy các phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ năm 1936 - 1939, phong trào Phản đế năm 1939 - 1941 và phong trào Mặt trận Việt Minh năm 1941 - 1945. Ngày 19-5-1941, Hội nghị lần thứ tám Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, theo đề nghị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đã quyết định đổi tên Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thành Việt Nam Độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh với những chính sách đúng đắn, có sức lan tỏa rộng rãi đã trở thành trung tâm tập hợp các tầng lớp nhân dân ở mọi miền Tổ quốc hăng hái tham gia các tổ chức “cứu quốc”(7), nhanh chóng phát triển lực lượng từ nông thôn đến thành thị, từ vùng cao đến đồng bằng, khơi dậy tinh thần yêu nước nồng nàn và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông, tạo thành khí thế cách mạng sục sôi, đóng góp quan trọng cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2-9-1945. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã khẳng định tính đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên, là ngọn cờ đoàn kết, tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, thắng lợi của nghệ thuật, chiến lược vận động quần chúng của Đảng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó”(8). Chỉ với vài nghìn đảng viên, Đảng đã đặt niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh to lớn của nhân dân, gắn bó mật thiết, thấu hiểu nguyện vọng chính đáng của nhân dân, dựa vào sự ủng hộ của nhân dân; tuyên truyền giác ngộ để nhân dân hiểu rõ con đường giành độc lập, tự do, mưu cầu hạnh phúc; tổ chức tập hợp nhân dân vào mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội và các hình thức tổ chức khác một cách linh hoạt; hướng dẫn quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao, đồng tâm hợp lực khởi nghĩa đánh đổ thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân, xây dựng chính quyền công - nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Từ kinh nghiệm sâu sắc về xây dựng lực lượng cách mạng, trong suốt 30 năm từ năm 1945 đến năm 1975, lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công tác dân vận luôn được Đảng quan tâm, củng cố, tiến hành thường xuyên trong mọi hoàn cảnh, địa bàn, hướng tới mọi tầng lớp nhân dân để tập hợp, khơi lên nguồn sức mạnh tổng hợp bằng các phong trào cách mạng thiết thực. Nhận thức sâu sắc về nguy cơ kẻ thù phá hoại mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân, Chỉ thị về công tác dân vận của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 1-9-1947, nhấn mạnh:“Quân địch đang dùng những thủ đoạn tàn bạo xảo trá hòng chia rẽ, lừa dối nhân dân và làm cho nhân dân hoang mang. Vậy công việc dân vận trong lúc này là một công tác quan trọng của Hội”(9); đi đôi với nhiệm vụ xây dựng Đảng để giữ vững vai trò lãnh đạo, củng cố niềm tin của nhân dân, trong tác phẩm nổi tiếng “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở “Ta phải liên lạc mật thiết với dân chúng. Không được rời xa dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại”(10) và chỉ ra động lực để thúc đẩy phong trào quần chúng là: “Chính phủ và Đảng chỉ mưu giải phóng cho nhân dân, vì thế, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân”(11). Các hình thức và biện pháp củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc được mở rộng với sự thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Hội Liên - Việt) vào ngày 29-5-1946, thống nhất Việt Minh, Liên Việt thành Mặt trận Liên - Việt ngày 3-3-1951, thu hút thêm các đảng phái yêu nước, đồng bào yêu nước không đảng phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, sắc tộc, xu hướng chính trị. Phong trào thi đua ái quốc là hình thức tập hợp toàn dân do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động, nhanh chóng được mọi tầng lớp nhân dân hưởng ứng sâu rộng, tạo thành sức mạnh to lớn phục vụ sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc; cổ vũ, động viên toàn quân, toàn dân, khơi dậy ý chí cách mạng, nhiệt huyết phấn đấu, hy sinh, hăng hái thi đua lao động, sản xuất vì Tổ quốc; đồng thời, tăng cường công tác địch vận, làm tan rã hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền; hàng chục nghìn dân công hướng ra tiền tuyến vận tải lương thực, thực phẩm, vũ khí phục vụ các chiến dịch, mà đỉnh cao là thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam.
Giai đoạn 1954 - 1975, đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền, miền Bắc trở thành hậu phương lớn chi viện sức người, sức của cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam; nhiệm vụ củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Mặt trận và các đoàn thể nhân dân vững mạnh luôn được quan tâm. Ngày 10-9-1955, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời, tăng cường đoàn kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ, động viên đồng bào, chiến sĩ nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tất cả vì miền Nam ruột thịt. Tại miền Nam, ngày 20-12-1960, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam họp tại căn cứ Tây Ninh quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Nhờ chú trọng đổi mới nội dung và phương thức, công tác dân vận được triển khai sâu rộng trong các cấp, các ngành, các lĩnh vực, các tầng lớp nhân dân trong nước và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại và đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; làm chỗ dựa vững chắc cho quân và dân miền Nam(12) tổ chức nhiều phong trào đấu tranh sâu rộng, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào ngày 30-4-1975. Với đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước bước sang thời kỳ mới - thời kỳ hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương khóa III, trong năm 1976, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã được hợp nhất và thống nhất chỉ đạo từ Trung ương đến cơ sở(13).
Đại hội VI của Đảng năm 1986, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức và cán bộ, đổi mới phong cách làm việc, đã đánh dấu bước chuyển quan trọng, mở ra thời kỳ phát triển mới của đất nước, của hệ thống chính trị và đáp ứng mong đợi của nhân dân. Báo cáo chính trị tại Đại hội nhấn mạnh bài học đầu tiên trong 4 bài học lớn được rút ra qua thực tiễn cách mạng, đó là “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”; “phải đặc biệt chăm lo củng cố sự liên hệ giữa Đảng và nhân dân”(14). Tư tưởng đó tiếp tục được phát triển, khẳng định mạnh mẽ, sâu sắc trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (Cương lĩnh 1991), toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Trong công cuộc đổi mới, thực hiện nhiệm vụ xây dựng “thế trận lòng dân”, bảo đảm điều kiện để Đảng vươn lên ngang tầm nhiệm vụ đã đặt ra yêu cầu cấp bách về đổi mới nội dung và phương thức công tác dân vận của Đảng. Trên cơ sở đó, Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương khóa VI đã ban hành Nghị quyết số 08B-NQ/HNTW, ngày 27-3-1990, về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”, tập trung khắc phục tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên quan liêu, mệnh lệnh, xa dân, chuyên quyền, độc đoán, tham ô, hối lộ, sống xa hoa, lãng phí, làm giảm nhiệt tình cách mạng, hạn chế việc phát huy khả năng to lớn của nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước. Công tác dân vận đặt ra yêu cầu là phải đổi mới, tiến hành đồng bộ trong toàn hệ thống chính trị; tạo động lực thúc đẩy phong trào quần chúng, đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hòa các lợi ích và nghĩa vụ công dân; đa dạng hóa các hình thức tập hợp lực lượng; nêu cao trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể đối với công tác quần chúng của Đảng.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nhân dân tỉnh Nghệ An (năm 2017) _Nguồn: baonghean.vn
Những thành tựu to lớn, quan trọng của gần 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, 10 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân là điều kiện bảo đảm vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng. Các văn kiện qua 7 kỳ Đại hội Đảng toàn quốc trong công cuộc đổi mới luôn chú trọng kiểm điểm, đánh giá về xây dựng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; từ đó, đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đối với công tác vận động quần chúng sát hợp với yêu cầu, kế hoạch phát triển đất nước trong từng giai đoạn cụ thể. Tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác dân vận trong thời kỳ đổi mới, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều văn bản, đó là: Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18-2-1998, “Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”; các Nghị quyết số 23, 24, 25, khóa IX năm 2003, về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác dân tộc, công tác tôn giáo; Quyết định số 290-QĐ/TW, ngày 25-2-2010, của Bộ Chính trị, “Về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị”; các văn bản tạo điều kiện cho nhân dân, các tổ chức quần chúng tham gia góp ý, giám sát, phản biện, góp phần xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, như Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị, “Về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”; Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị, “Ban hành quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”; Quyết định số 124-QĐ/TW, ngày 2-2-2018, của Ban Bí thư, “Về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”,... Đặc biệt là Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 3-6-2013, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”. Trên cơ sở đánh giá tình hình, làm rõ các thách thức đối với công tác dân vận trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng, Nghị quyết khẳng định 5 quan điểm, 7 nhiệm vụ thực hiện công tác dân vận trong tình hình mới. Bên cạnh đó, nhiều văn bản của Đảng liên quan đến công tác dân vận, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và hội quần chúng được ban hành, nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị đối với công tác dân vận, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và nỗ lực của cả hệ thống chính trị, công tác dân vận tiếp tục được tăng cường, đổi mới và đạt được nhiều kết quả tích cực. Công tác dân vận của cơ quan nhà nước được chú trọng đẩy mạnh; từ năm 2018, việc thực hiện “Năm dân vận chính quyền” với 6 nội dung trọng tâm được triển khai đồng bộ ở các cấp chính quyền, tăng cường trách nhiệm đối với đời sống, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; nâng cao đạo đức công vụ, tinh thần phục vụ, tạo điều kiện để nhân dân giám sát, tham gia xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh theo hướng “thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân”. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội hướng về cơ sở, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, mở rộng hoạt động giám sát, phản biện, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền. Các phong trào thi đua yêu nước được đẩy mạnh gắn với việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phong trào thi đua “Dân vận khéo”, với hàng vạn mô hình, điển hình dân vận khéo, tạo sức lan tỏa sâu sắc những giá trị tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Dân vận” vào thực tiễn cuộc sống, nêu cao tinh thần trách nhiệm của Đảng, hệ thống chính trị với nhân dân. Đội ngũ cán bộ dân vận được kiện toàn, nâng cao năng lực, tham mưu với Đảng lãnh đạo, đổi mới công tác dân vận đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, phối hợp đẩy mạnh công tác dân vận trong hệ thống chính trị, chú trọng công tác dân vận của chính quyền các cấp; góp phần tạo đồng thuận xã hội, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Những kết quả quan trọng đó góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tiếp tục khẳng định cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” trong thực tiễn. Ghi nhận những đóng góp quan trọng của ngành dân vận, những năm qua Đảng, Nhà nước đã trao tặng nhiều danh hiệu cao quý cho tập thể Ban Dân vận Trung ương, như Huân chương Sao vàng năm 2002, Huân chương Hồ Chí Minh năm 2015, Huân chương Lao động hạng Nhất (các năm 2010, 2015, 2019).
Thắm tình quân dân _Ảnh: Tư liệu
Phát huy các giá trị truyền thống, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận trong tình hình mới
Trong suốt hơn 90 năm lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhận thức sâu sắc sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và yêu cầu xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, quán triệt tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cương lĩnh 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Mặc dù bối cảnh trong và ngoài nước còn nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế nước ta vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao, kinh tế vĩ mô ổn định khá vững chắc; phúc lợi, an sinh xã hội được tăng cường, dịch bệnh được kiểm soát, các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao; quốc phòng an ninh, đối ngoại được giữ vững; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được quan tâm toàn diện trên các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí đạt nhiều kết quả tích cực, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa được củng cố. Một trong những bài học kinh nghiệm được rút ra, đó là: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn xác định “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện đúng nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Đảng phải chăm lo đầy đủ và sâu sắc đến đời sống, lợi ích của nhân dân; xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên. Để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, phải kiên quyết, tích cực làm trong sạch đội ngũ cán bộ của Đảng, khắc phục các hiện tượng sa sút, thoái hoá về phẩm chất, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, củng cố và xây dựng các tổ chức đảng thật trong sạch, vững mạnh, làm cho Đảng thật sự “là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(15).
Cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam tặng cờ Tổ quốc cho ngư dân và vận động bà con tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo _Nguồn: baohaiquanvietnam.vn
Thời gian tới, tình hình quốc tế, khu vực có nhiều thay đổi phức tạp, nhanh chóng, khó lường; tình hình trong nước vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức về kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, đời sống nhân dân; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, kiểm soát quyền lực còn một số hạn chế phải nhanh chóng khắc phục. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục xây dựng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, đối ngoại, phát triển đất nước ở mức độ cao hơn. Đảng nhận thức rõ động lực phát triển của đất nước giai đoạn tới chính là tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, văn hóa và con người Việt Nam, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đồng thời, đó cũng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trên cơ sở đó, công tác dân vận của Đảng cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu đặt ra, tập trung vào thực hiện tốt những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động về công tác dân vận của các cấp ủy đảng và của cả hệ thống chính trị; phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Đổi mới công tác dân vận theo hướng thiết thực, sáng tạo; lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên; tạo sự đồng thuận, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
Hai là, tập trung làm tốt công tác dân vận của các cơ quan nhà nước các cấp, trọng tâm là: 1- Phát huy vai trò tham gia của nhân dân trong quá trình xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật; bảo đảm hài hoà lợi ích hợp pháp, chính đáng giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân gắn với lợi ích quốc gia - dân tộc, quan tâm địa bàn khó khăn, đối tượng yếu thế trong xã hội. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hoá cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nâng cao chất lượng, khắc phục tính hình thức trong hoạt động tiếp xúc cử tri, hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tiếp dân, đối thoại, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của nhân dân; 2- Nâng cao đạo đức công vụ, tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực thi công vụ; phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ quản lý, lãnh đạo, người đứng đầu trước nhân dân. Kiên quyết phê phán, đấu tranh chống những biểu hiện thờ ơ, vô cảm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu, thiếu trách nhiệm với nhân dân; đồng thời, nâng cao trách nhiệm công dân, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật; 3- Thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở, sâu sát cơ sở, lắng nghe tâm tư, kịp thời giải quyết nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân; khắc phục tình trạng chậm hoặc không nắm được tình hình trật tự và nguyên vọng của nhân dân. Tập trung xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề bức xúc liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân, các vụ khiếu kiện đông người, vượt cấp, kéo dài, tránh để hình thành và lan rộng các điểm nóng về an ninh, trật tự xã hội.
Ba là, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện tốt phong trào thi đua “Dân vận khéo”, tích cực tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng các mô hình hay, điển hình tiên tiến về công tác dân vận. Phát huy vai trò, tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội, các hội quần chúng theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, thực chất, hiệu quả hơn; nâng cao hiệu quả giám sát và phản biện xã hội. Quan tâm lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và có cơ chế, chính sách động viên đội ngũ cán bộ làm công tác mặt trận, dân vận, đoàn thể; kiên quyết không bố trí cán bộ thiếu gương mẫu, đạo đức kém, vi phạm kỷ luật làm công tác dân vận.
Bốn là, tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; nâng cao vai trò trách nhiệm và tính gương mẫu của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, các cơ quan, tổ chức, đơn vị; kiên quyết đấu tranh với những quan điểm, luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, phản động. Phối hợp, thực hiện có hiệu quả Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị; tích cực đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về công tác dân vận.
Với truyền thống vẻ vang 90 năm, công tác dân vận của Đảng thực sự đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng. Yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân trong chặng đường phát triển tiếp theo của đất nước với mục tiêu trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng; trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Nước, đòi hỏi công tác dân vận phải không ngừng phát huy truyền thống, nâng cao năng lực vận động quần chúng, làm tốt vai trò là cầu nối quan trọng giữa Đảng với nhân dân, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới./.
-----------------------------
(1) Đăng trên báo Sự thật, số 120, ngày 15-10-1949
(2) Thông báo ý kiến của Bộ Chính trị số 293-CV/TW, ngày 14-10-1999
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 15
(4), (5) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t. 2, tr. 16, 113
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 407 - 408
(7) Hội Nông dân Cứu quốc, Công nhân Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc, Tự vệ Cứu quốc,...
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 19
(9) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 285 - 286
(10), (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 278, 285
(12) Công tác dân vận, tuyên truyền tuyển quân chi viện cho miền Nam góp phần trong 3 năm (1973 - 1975) có gần 50 vạn thanh niên nhập ngũ; riêng trong 2 năm (1973 - 1974) đã có 379.000 tấn vật chất từ miền Bắc chuyển vào các mặt trận, bằng 54% tổng khối lượng vật chất cho chiến trường trong suốt 16 năm trước đó; trong các năm (1972 - 1974), hàng nghìn cán bộ làm công tác tư tưởng đã được đưa vào miền Nam tuyên truyền, động viên chiến đấu (Ban Dân vận Trung ương: Lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, tr. 353)|
(13) Ngày 25-4-1976, nhân dân cả nước thực hiện cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung cả nước; kỳ họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất diễn ra từ ngày 24-6 - 2-7-1976; Ban Bí thư ban hành Quyết định số 253-NQ/TW, ngày 24-5-1976, “Về việc thống nhất các đoàn thể nhân dân và thống nhất Mặt trận”, trên cơ sở đó hội nghị hợp nhất các đoàn thể được tổ chức: Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh ngày 26-3-1976; Tổng Công đoàn Việt Nam từ ngày 6 - 8 tháng 6-1976; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam từ ngày 10 - 12 tháng 6-1976; Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam từ ngày 20 - 21 tháng 9-1976; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ ngày 31-1 đến ngày 4-2-1977
(14) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 47, tr. 362 – 363
(15) Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIII của Đảng: “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới”, Tạp chí Cộng sản, số 949, tháng 9 năm 2020, tr. 7
TRƯƠNG THỊ MAI
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương