Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đại biểu Quốc hội bỏ phiếu bầu Phó Chủ tịch nước, một số Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Kỳ họp thứ mười một, Quốc hội khóa XIV _Ảnh: TTXVN
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, trong đó có tư tưởng về hoạt động lập pháp, liên tục được Người bổ sung và phát triển làm nền tảng, làm cơ sở lý luận và là kim chỉ nam cho hoạt động xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta từ khi giành độc lập tới ngày hôm nay. Tư tưởng của Người về hoạt động lập pháp được thể hiện qua những luận điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự bất khả xâm phạm của chủ quyền quốc gia, tính thiêng liêng của độc lập dân tộc.
Hồ Chí Minh khẳng định bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là tất yếu, là tuyệt đối và có ý nghĩa chiến lược, xuyên suốt quá trình cách mạng, quyết định đến các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế - xã hội đến chính trị, từ văn hóa đến khoa học, từ ngoại giao đến quân sự, quốc phòng, an ninh… của quốc gia, dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là nhiệm vụ bắt buộc, là hành động “tất phải thế”.
Cùng với sự toàn vẹn của chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc là tư tưởng chủ đạo, chi phối toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh, Người khẳng định: Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu(1). Theo Hồ Chí Minh, độc lập, tự do dân tộc phải thực sự, hoàn toàn và được biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; các quyền dân tộc, quyền con người phải được thực hiện trên thực tế. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do của nhân dân bởi “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập chẳng có nghĩa lý gì"(2).
Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh, tư tưởng của Người về chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc đã, đang và ngày càng phát huy giá trị. Đây là cơ sở ý thức hệ quan trọng cho mọi hoạt động của cơ quan nhà nước, cho ý chí, nguyện vọng của toàn thể nhân dân, là căn cứ, mục tiêu và động lực của hoạt động lập pháp ngày nay và mai sau.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền nhân dân, tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
“Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam”(3) - đó là tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chữ “DÂN” được đặt vào vị trí tối thượng. Người luôn căn dặn: “Trong bầu trời không gì quí bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(4). Mọi việc lớn nhỏ đều nhằm làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân. Đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân, để mưu cầu hạnh phúc cho dân, bởi dân là chủ thể, dân là thước đo chân lý. Đối với Người, chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Đối với Người, cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý. Đối với Người, ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân chính là phục tùng chân lý.
Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh về đề cao tính tối thượng của pháp luật.
Năm 1922, Yêu sách về quyền của người dân và chế độ pháp lý của Nhà nước với Hiến pháp ở vị trí tối thượng được Người khái quát, nâng lên thành tâm niệm linh thiêng, khắc khoải lòng người trong “Việt Nam yêu cầu ca”:
“Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”(5).
Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy được mối quan hệ hữu cơ, máu thịt giữa quyền làm chủ xã hội, quyền dân chủ, tự do của nhân dân với Hiến pháp và các đạo luật. Người thấy rõ vai trò của Hiến pháp, của các đạo luật trong việc làm thay đổi tính chất, bản chất của một chế độ chính trị. Với Hồ Chí Minh, thần linh pháp quyền không mơ hồ, không xa xôi. Người đã nhận thức rằng, để xây dựng được Nhà nước pháp quyền, nơi mà mỗi người đều phải phục tùng và tôn trọng luật pháp, thì pháp luật phải có vị trí tối thượng như thần linh. Tư tưởng này của Người chính là bản Cương lĩnh lập hiến dẫn dắt con đường đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, thành lập Nhà nước dân chủ nhân dân, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ tự do và quyền làm chủ của nhân dân; là sợi chỉ đỏ cho hoạt động lập pháp, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta.
Thứ tư, tư tưởng Hồ Chí Minh về yêu cầu mục đích của pháp luật là phải nhân đạo, nhân văn, vì con người.
Hồ Chí Minh luôn mong muốn xây dựng hệ thống pháp luật nhân đạo, nhân văn, do con người và vì con người. Pháp luật phải có tính hài hòa, giải quyết mối quan hệ giữa người với người, giữa người với công việc trên nền tảng có lý, có tình.
Hệ thống pháp luật mà Người mong muốn xây dựng là sản phẩm của chế độ có một “mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người… đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy”(6). Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945, Người yêu cầu: “Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ”(7). Chính Người đã chỉ đạo soạn thảo Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 với những nội dung thể hiện đậm nét tính dân chủ, vì con người. Trong bài phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Tư pháp toàn quốc năm 1950, Người chỉ rõ: “Pháp luật của ta hiện nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động… Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động”(8). Như vậy, trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, pháp luật sinh ra không vì một cái gì khác hơn là vì dân. Đây là nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta từ khi giành độc lập cho đến hôm nay và mai sau.
Thứ năm, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng pháp luật quốc tế.
Tôn trọng pháp luật quốc tế là tầm nhìn rất xa và rộng của Hồ Chí Minh. Người nói “Đối với tất cả các nước trên thế giới, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thiết tha mong muốn duy trì tình hữu nghị và thành thật hợp tác trên cơ sở bình đẳng và tương trợ để xây dựng hòa bình thế giới lâu dài”(9). Quan điểm của Người là nền tảng tư tưởng cho đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, là cơ sở để các nước có chế độ chính trị khác nhau trên thế giới công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Đây cũng chính là kim chỉ nam, là nguyên tắc cơ bản cho công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đối ngoại và hội nhập của Việt Nam.
Thứ sáu, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm dân chủ trong quá trình xây dựng pháp luật.
Trong xây dựng hệ thống pháp luật, Hồ Chí Minh rất chú trọng tính dân chủ. Theo Người, muốn có được hệ thống pháp luật như vậy, sự tham gia của nhân dân trong quá trình xây dựng pháp luật là điều kiện tiên quyết. Trong quá trình xây dựng Hiến pháp năm 1959, việc bảo đảm sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân vào xây dựng pháp luật được Người đặc biệt quan tâm. Để bảo đảm pháp luật thực sự của nhân dân, Người yêu cầu: “Bản Hiến pháp chúng ta sẽ thảo ra… phải tiêu biểu được các nguyện vọng của nhân dân… Sau khi thảo xong, chúng ta cần phải trưng cầu ý kiến của nhân dân cả nước một cách thật rộng rãi. Có như thế bản Hiến pháp của chúng ta mới thật sự là một bản Hiến pháp của nhân dân, của chế độ dân chủ”(10).
Hồ Chí Minh nhận định: “Phải nhận thức cho tốt và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật”; “sự bình đẳng trong xã hội ở nơi pháp luật” và “dân chủ đúng đắn cũng ở nơi pháp luật”(11). Như vậy, trong tư tưởng của Người, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật phải hướng tới mục tiêu dân chủ, tiến bộ.
Từ những luận điểm nêu trên, có thể khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật nói chung, về hoạt động lập pháp nói riêng là tài sản tinh thần quý báu phải được gìn giữ, bảo vệ và phát huy trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập, trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nhằm phát triển nhanh và bền vững để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, góp phần củng cố, tạo nền tảng quan trọng cả về lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
II. Học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Học tập, vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp trong giai đoạn hiện nay có vai trò rất quan trọng trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân đang tích cực, chủ động thực hiện thắng lợi các định hướng, nhiệm vụ trọng tâm và đột phá chiến lược đã xác định tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đó là: Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước(12); hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân(13); đột phá chiến lược về thể chế để phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh(14).
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu tại Kỳ họp thứ mười một, Quốc hội khóa XIV _Ảnh: TTXVN
Bên cạnh đó, để hội nhập hiệu quả, Việt Nam phải có các giải pháp về lập pháp để xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm vừa phù hợp và phát huy lợi thế, thế mạnh trong nước, vừa hài hòa, tương thích với các tiêu chuẩn chung của pháp luật quốc tế, vừa thể hiện là một đối tác tin cậy, uy tín, có vai trò trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam cũng đang hòa nhịp trong dòng chảy của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với khát vọng phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh và hạnh phúc. Hội nhập quốc tế trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ có tác động nhiều mặt đến việc học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về lập pháp trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhiều vấn đề mới, chưa từng có tiền lệ sẽ nảy sinh đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của pháp luật để nhân dân và Tổ quốc Việt Nam được hưởng thụ những lợi ích tốt nhất mà hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng này đem lại.
1. Yêu cầu về hoạt động lập pháp trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Kế thừa nhận thức về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được đề cập trong văn kiện các kỳ Đại hội trước, nội dung xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XIII, được nhắc đến nhiều lần và là một trong ba đột phá chiến lược của Đại hội với những điểm mới hơn, sâu sắc hơn trong nhận thức; quyết liệt hơn, mạnh mẽ hơn trong chỉ đạo thực hiện. Đại hội lần thứ XIII nêu rõ, mục tiêu này chỉ đạt được khi chúng ta biết gắn tăng cường công khai, minh bạch với trách nhiệm giải trình; kiểm soát hiệu quả và thực chất quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật; xây dựng nhà nước pháp quyền gắn với mục tiêu đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tôn trọng, tuân theo các quy luật thị trường gắn với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng lợi ích của nhân dân, của dân tộc gắn với bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, thị trường và xã hội…
Để thực hiện thành công các mục tiêu nêu trên nhằm xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, hoạt động lập pháp trong thời gian tới phải đáp ứng 6 yêu cầu sau:
Thứ nhất, phải bảo đảm tạo hành lang pháp lý để Nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Hoạt động lập pháp phải tạo được những bước đột phá thực sự về thể chế để giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra, rất thiết thực và cụ thể, bảo đảm sự bao phủ của pháp luật đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội - đưa thực tiễn, “hơi thở” và nhu cầu của cuộc sống vào pháp luật trước khi triển khai thi hành pháp luật trong thực tiễn. Hệ thống pháp luật phải bảo đảm ngày càng tốt hơn dân chủ, công bằng mới có thể làm cơ sở để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, phải bảo đảm việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và xã hội; bảo đảm quyền con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội. Lấy việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của Nhà nước, là tiêu chí đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, trong thi hành công vụ của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và bảo đảm quyền con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình theo đúng các quy định của pháp luật. Mối quan hệ giữa cá nhân và Nhà nước được xác định chặt chẽ về phương diện luật pháp, mang tính bình đẳng và được xác định theo nguyên tắc: Cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép, người dân được làm tất cả trừ những điều pháp luật cấm.
Thứ ba, phải bảo đảm quyền lực nhà nước được tổ chức và thực hiện theo các nguyên tắc: Phân công, phối hợp quyền lực và kiểm soát quyền lực hiệu quả trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Đồng thời, việc tổ chức và thực thi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ với các cơ chế kiểm soát quyền lực cụ thể cả từ bên trong bộ máy nhà nước và bên ngoài bộ máy nhà nước; tăng cường cơ chế giám sát của nhân dân và xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Thứ tư, phải bảo đảm một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật phù hợp. Nền tảng của Nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng. Do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là yêu cầu, điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo Hiến pháp, pháp luật luôn được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh. Hình thức và phương thức bảo vệ Hiến pháp, pháp luật phải phù hợp với thể chế nước ta và hướng tới mục tiêu bảo đảm địa vị tối cao, bất khả xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và quy định của Hiến pháp, không phụ thuộc vào chủ thể của các hành vi này. Cùng với bảo vệ Hiến pháp, phải tiếp tục hoàn thiện và thực thi một chế độ tư pháp thật sự minh bạch, trong sạch để duy trì, bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Thứ năm, phải bảo đảm thích ứng với những tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Theo đó, hoạt động lập pháp phải tạo cơ sở pháp lý để tận dụng tối đa những thành tựu, những tác động tích cực của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhằm đem lại lợi ích cho người dân, doanh nghiệp và xã hội; hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của cuộc Cách mạng này, bảo vệ người dân, doanh nghiệp và Nhà nước trước những hệ lụy có thể xảy ra. Hoạt động lập pháp cũng phải bảo đảm được vai trò của Nhà nước trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo với những tư duy mới, phù hợp với xu thế tiến bộ của thế giới trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thứ sáu, phải bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là nội dung hết sức quan trọng, thể hiện rõ nét nhất đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là phải gắn liền và dựa trên cơ sở đổi mới, chỉnh đốn Đảng.
2. Học tập, vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV diễn ra cùng thời điểm với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW. Trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và tiếp tục cụ thể hóa, đưa Hiến pháp năm 2013 vào đời sống, qua đó, khẳng định vai trò quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện thể chế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội khóa XIV đã thông qua 73 luật, 2 pháp lệnh và 31 nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật nói chung, về hoạt động lập pháp nói riêng là nền tảng, yêu cầu bắt buộc để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, góp phần thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta phát triển nhanh, bền vững. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp trong bối cảnh ngày nay nhằm xây dựng hệ thống pháp luật không chỉ đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn mà còn phải có tầm nhìn, có chiến lược để dẫn dắt, định hướng thực tiễn. Trong thời gian tới, Quốc hội sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện học tập tư tưởng Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW và Kết luận số 01-KL/TW(15) trong hoạt động lập pháp. Kết quả này sẽ góp phần chứng minh tính đúng đắn và hiện thực hóa các tư tưởng, quan điểm chỉ đạo về một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bài viết quan trọng ngày 17-5-2021 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng(16).
Theo đó, cùng với việc tham gia nghiên cứu, xây dựng và triển khai thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045(17), hoạt động lập pháp của Quốc hội trong Nhiệm kỳ khóa XV cần tập trung vào một số lĩnh vực quan trọng sau:
Thứ nhất, trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chủ quyền, biên giới quốc gia:
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật để kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Tiếp tục luật hóa để làm cơ sở pháp lý thực hiện thành công các chiến lược như: Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia và Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng... Tiếp tục khẳng định vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân: Tập trung xây dựng cơ sở pháp lý để xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền; bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát hiệu quả quyền lực nhà nước. Thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Nhà nước tập trung vào quản lý vĩ mô, nâng cao chất lượng xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Hoàn thiện hệ thống pháp luật để đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Thể chế hóa bằng luật để xây dựng và thực hiện phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, trọng dân, gần dân, hiểu dân, vì dân, bám sát thực tiễn, chịu khó học hỏi, nói đi đôi với làm.
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ thăm và tặng quà công nhân có hoàn cảnh khó khăn của Nhà máy Alumin Nhân Cơ tại xã Nhân Cơ, huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông _Ảnh: TTXVN
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, tăng tính dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Hoàn thiện cơ chế giám sát, đánh giá đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân với kiểm tra, giám sát của Đảng, với giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân.
Thứ ba, trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân: hoàn thiện cơ sở pháp lý để thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Xây dựng cơ chế pháp lý để hiện thực hóa nội dung mới được bổ sung tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng là “dân giám sát, dân thụ hưởng” và thực hiện hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát của nhân dân. Tạo cơ sở pháp lý để làm cho người dân trao quyền mà không mất quyền, các cơ quan nhà nước và cá nhân được trao quyền mà không tiếm quyền của dân; đây là vấn đề quyết định nhất bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Phát huy mạnh mẽ và đặt yêu cầu lắng nghe nhân dân, phục vụ nhân dân là yêu cầu tối cao trong hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và từng đại biểu Quốc hội nhằm hoàn thành trọng trách mà nhân dân giao. Hoạt động lập pháp phải hướng đến mục tiêu con người, tức là vừa giải phóng mọi tiềm năng của dân, chăm lo bồi dưỡng sức dân, phát triển sức dân vừa phải tiết kiệm sức dân.
Thứ tư, trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phát triển bền vững kinh tế - xã hội - môi trường: Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ và những thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng pháp luật để phát huy đổi mới sáng tạo, tận dụng tối đa lợi ích và giảm thiểu tối đa rủi ro, hướng đến việc giải quyết hiệu quả hàng loạt vấn đề đặt ra trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (18). Xây dựng các “sandbox” về mô hình đầu tư, kinh doanh mới, trong đó, có mô hình như kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, du lịch thông minh, fintech... Tiếp tục hoàn thiện thể chế về quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng và bố trí nguồn lực nhằm phát huy lợi thế vùng, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Hoàn thiện pháp luật để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo đảm công khai, minh bạch và khắc phục tình trạng tranh chấp, khiếu kiện, tham nhũng, lãng phí. Đẩy nhanh hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách bảo đảm đồng bộ, minh bạch các yếu tố thị trường để có khả năng vốn hóa các nguồn lực tài nguyên, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội với bảo vệ môi trường.
Thứ năm, trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế: Hoàn thiện hệ thống pháp luật, làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện nhiều hình thức hội nhập quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn. Nội luật hóa đầy đủ và phù hợp những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tích cực và có trách nhiệm trong việc tham gia các hoạt động xây dựng các điều ước quốc tế. Theo đó, cần chủ động chuyển từ việc tham gia các luật chơi định sẵn thành chủ thể thiết kế luật chơi trên trường quốc tế, từng bước đề xuất xây dựng các điều ước quốc tế từ thực tiễn Việt Nam.
Thứ sáu, trong quy trình lập pháp: Tiếp tục đổi mới quy trình lập pháp, mở rộng dân chủ trong xây dựng pháp luật để các quy định của luật có tính khả thi, phù hợp với thực tiễn, có căn cứ khoa học. Hoàn thiện cơ chế để bảo đảm tính phản biện, khách quan, bảo đảm đánh giá thực tiễn đầy đủ, lắng nghe ý kiến của nhân dân, của đối tượng trực tiếp chịu sự tác động của dự án luật. Bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng và thẩm tra luật. Đổi mới mạnh mẽ về cách thức, phương thức thẩm tra, lấy ý kiến của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội, tăng cường tham vấn, tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học. Nghiên cứu xây dựng cơ chế pháp luật điều chỉnh hoạt động vận động chính sách, bảo đảm khách quan, minh bạch, có kiểm soát, giám sát chặt chẽ để góp phần hữu hiệu mở rộng dân chủ, đồng thời, chống lợi ích nhóm trong hoạt động lập pháp.
Thứ bảy, trong tổ chức thi thành pháp luật: Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa cơ quan ban hành pháp luật, cơ quan tổ chức thi hành pháp luật và cơ quan bảo vệ pháp luật. Tập trung nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật; cải cách thủ tục hành chính; kiện toàn tổ chức, tinh giảm hợp lý đầu mối, bỏ cấp trung gian trong thi hành pháp luật. Tăng cường và đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và tư vấn, trợ giúp pháp lý để pháp luật được triển khai thực hiện nhanh chóng trong cuộc sống. Thường xuyên tiến hành giám sát, đánh giá, tổng kết thi hành pháp luật, rà soát, hệ thống hóa văn bản pháp luật, kịp thời phát hiện và khắc phục những điểm bất cập, thiếu sót, mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp luật.
Thứ tám, trong tuyên truyền, phổ biến, lan tỏa, phát huy tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong hoạt động lập pháp nói riêng, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta nói chung: Tiếp tục nâng cao nhận thức cho các đại biểu Quốc hội, cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật về nội dung, giá trị và ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp; xác định tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động lập pháp. Nâng cao chất lượng, hiệu quả việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động lập pháp đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực tư duy lý luận, năng lực tổng kết thực tiễn và xây dựng pháp luật để giải quyết hiệu quả những vấn đề đang đặt ra trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hội nhập quốc tế.
Tóm lại, vận dụng, phát huy những thành tựu vô giá của tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động lập pháp cùng với việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa hoạt động của Quốc hội, nâng cao vai trò của Quốc hội, cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước ta là nền tảng, yêu cầu bắt buộc để hoàn thiện hệ thống pháp luật góp phần xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hệ thống pháp luật hoàn thiện là tiền đề để hiện thực hóa mô hình phát triển mà toàn Đảng và toàn dân ta mong muốn như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định(19). Đó là, phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn; phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai với một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân./.
GS, TS. VƯƠNG ĐÌNH HUỆ
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
15:36, ngày 17-07-2021
-------------------------
(1) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh: - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, 2006, t. 1, tr. 112
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 64
(3) Điều 1 Hiến pháp năm 1946
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 453
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 47
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 21
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 7
(8) Xem Chủ tịch Hồ Chí Minh với ngành tư pháp Việt Nam tại địa chỉ https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=634
(9) Lời nói trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày trong Hội nghị những người Ấn nghiên cứu vấn đề quốc tế, ngày 7-2-1958
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.510-511
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 5, tr. 299, 293, 418
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 332
(13) Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 334-337
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 337-338
(15) Ban hành ngày 7-5-2021 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
(16) https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-646305/.
(17) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập I, tr 177
(18) Như: Các vấn đề pháp lý đặt ra liên quan đến sự phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong các lĩnh vực của đời sống xã hội (như địa vị pháp lý của Robot, hoạt động của Robot, xe tự lái hoạt động trên đường…); vấn đề tài sản ảo, tiền kỹ thuật số; việc cân bằng giữa quyền khai thác tài nguyên dữ liệu và quyền bảo vệ bí mật đời tư của cá nhân...
(19) GS, TS. Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” tại địa chỉ https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-646305