Đơn vị hỗ trợ
Thống kê truy cập
Tổng truy cập 7.084.264
Truy cập hiện tại 1.050 khách
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
Ngày cập nhật 09/06/2020

Đường lối xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được Đảng ta khẳng định rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Sau 10 năm xây dựng nền văn hóa dưới ánh sáng Cương lĩnh năm 2011, chúng ta đã thu được những kết quả toàn diện cả về nhận thức lý luận và thực tiễn. Bài viết này trao đổi một số ý kiến về những kết quả to lớn đó.

 

Những nhận thức mới của Đảng ta về văn hóa và con người

Nếu Đại hội VI của Đảng là mở đầu cho công cuộc đổi mới thì với việc thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sau đây gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991), Đại hội VII đã hoạch định đường lối của Đảng về xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn mới, trong đó có đường lối về văn hóa. Trên cơ sở xác định “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” là một trong sáu đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Cương lĩnh năm 1991 chỉ ra nội dung, phương hướng căn bản xây dựng, phát triển nền văn hóa đất nước nhằm “tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ”.

Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đại hội XI của Đảng đã tổng kết, đánh giá những kết quả to lớn đạt được cùng với những hạn chế, khó khăn và những vấn đề còn tiếp tục phải giải quyết. Từ những bài học kinh nghiệm được rút ra trong quá trình tổng kết thực tiễn ấy, Đảng ta đã có nhiều nhận thức mới về mặt lý luận làm cơ sở cho việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh của Đảng - Cương lĩnh năm 2011. Đối với lĩnh vực văn hóa, từ quan điểm nhất quán về một “nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ”, Cương lĩnh năm 2011 và Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (Nghị quyết số 33-NQ/TW), đã tiếp tục làm sâu sắc hơn nội dung, tính chất, vai trò, tầm quan trọng của văn hóa, cũng như mối quan hệ giữa văn hóa với con người và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

Trong đường lối đổi mới xây dựng, phát triển đất nước, Đảng xác định ba trụ cột quan trọng nhất, trong đó, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm  xây dựng văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã hội. Trên cơ sở ấy, Cương lĩnh năm 2011 nhấn mạnh tầm quan trọng của văn hóa với vai trò không chỉ là “nền tảng tinh thần vững chắc” của xã hội, mà còn là “sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”. Đó là nền văn hóa phát triển hài hòa, kế thừa và phát huy các truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu được những tinh hoa văn hóa của nhân loại; thấm đẫm những giá trị nhân văn, dân chủ, tôn vinh cái đẹp cùng phẩm giá con người; thể hiện bản lĩnh vững vàng, đấu tranh với cái xấu, cái thấp hèn và những biểu hiện phản văn hóa. Việc coi văn hóa như một “sức mạnh nội sinh”, một điều kiện sống còn bảo đảm cho công cuộc xây dựng, phát triển bền vững đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ các thành tựu cách mạng, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là một nhận thức mới về vai trò văn hóa. Nhận thức ấy bắt nguồn từ thực tiễn sinh động của cách mạng để nhận ra chân bản chất của văn hóa, thấy rõ hơn khả năng thực tế của văn hóa với tính chất là sức mạnh mềm, có thể biến sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất, nhân lên sức mạnh vật chất để thúc đẩy phát triển xã hội. Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa chính là một thứ sức mạnh dẫn dắt đối với mỗi con người, đối với cả dân tộc, văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ.

Trong định hướng đường lối, Nghị quyết số 33-NQ/TW yêu cầu “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Đây là một đòi hỏi xuất phát từ nhận thức về bản chất, tầm quan trọng của văn hóa. Đồng thời, đó cũng chính là yêu cầu từ thực tiễn đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Trên thực tế, trong khi những thành tựu về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của chúng ta rất to lớn, thì thành tựu trong lĩnh vực văn hóa là “chưa tương xứng”, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra với tính chất “nền tảng tinh thần” cho sự phát triển đất nước. Sự hạn chế về văn hóa thể hiện trên nhiều khía cạnh, từ đạo đức, lối sống, môi trường văn hóa, cơ sở hạ tầng văn hóa, đến đời sống văn hóa, quản lý, giáo dục văn hóa, văn hóa truyền thông, chất lượng các công trình văn hóa, nghệ thuật... Nguyên nhân của những hạn chế đó bắt nguồn từ nhận thức về văn hóa chưa rõ, chưa đủ, dẫn đến tập trung quan tâm cho chính trị, kinh tế và các lĩnh vực khác mà chưa coi trọng đúng tầm cho văn hóa, chưa có những giải pháp tích cực, cách làm hiệu quả, chưa có sự đầu tư các nguồn lực hợp lý để xây dựng, phát triển nền văn hóa đất nước.

Cương lĩnh năm 2011 cũng đã có bước đi quan trọng trong nhận thức về con người. Đó là sự kế thừa nhất quán, sáng tạo những nhận thức đúng đắn, nhân văn của Đảng ta về con người, thể hiện ở mục đích của cuộc cách mạng do Đảng phát động và lãnh đạo thực hiện chính là vì giải phóng con người, vì hạnh phúc nhân dân. Nhưng muốn đạt đến mục đích chung nhất ấy cần phải nắm được tính chất, yêu cầu của vấn đề con người, mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa con người với văn hóa và các lĩnh vực khác trong những điều kiện cụ thể. Trong điều kiện đất nước bị thực dân đô hộ, đế quốc giày xéo, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn và cũng là đặt ra mục tiêu cụ thể của cách mạng là “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(1). Khi công cuộc đổi mới đã thu được những thành tựu có tính lịch sử, đời sống vật chất của nhân dân được cải thiện, đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vấn đề con người được Đảng quan tâm toàn diện hơn, sâu rộng hơn. Bởi thế, Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển”. Từ nhận thức con người là nhân tố quyết định, là mục tiêu của phát triển, đồng thời là “tác giả”, là nguồn lực quan trọng nhất của phát triển, Nghị quyết số 33-NQ/TW triển khai thành quan điểm chỉ đạo: “Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế”. Cương lĩnh năm 2011 cũng đồng thời đề ra yêu cầu quan tâm đầy đủ hơn, toàn diện hơn đến con người về đời sống vật chất, đời sống tinh thần, về điều kiện, khả năng phát triển một cách toàn diện, về việc được bảo đảm các quyền và lợi ích chính đáng trong mối quan hệ hài hòa với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân. Và toàn bộ sự phát triển xã hội là nhằm mục đích “vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao”, quyền con người được tôn trọng và bảo vệ trong mối quan hệ gắn bó với “quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”. Nhận thức đó cũng là sự kế thừa, tiếp nối quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”(2), dựa vào “sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người”(3) để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Cương lĩnh năm 2011 nhận thức vấn đề về văn hóa trong sự thống nhất hữu cơ với con người. Con người chính là biểu hiện tập trung nhất của văn hóa. Mặt khác, xây dựng văn hóa chính là nhằm phục vụ cho con người, phát triển con người. Như Nghị quyết số 33-NQ/TW khẳng định, “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa”. Sự phát triển của con người, đến lượt nó lại chịu sự tác động trở lại của văn hóa. Đó là văn hóa gia đình, văn hóa cộng đồng, văn hóa trong chính trị, văn hóa trong kinh tế, những yếu tố, điều kiện tạo thành một môi trường sống, hằng ngày, hằng giờ tác động vào quá trình hình thành lối sống, nhân cách và phẩm giá của con người. Từ nhận thức ấy, Cương lĩnh năm 2011 đề ra phương hướng “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” gắn bó hữu cơ, chặt chẽ với “xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”. Cụ thể hóa Cương lĩnh năm 2011, Nghị quyết số 33-NQ/TW nhấn mạnh yêu cầu “xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách”, đồng thời “hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện - mỹ”. Trong đó, giáo dục có vai trò quan trọng đặc biệt, góp phần trực tiếp vào việc phát triển con người và phải đi trước một bước. Đó cũng là một trong những lý do để Đảng ta chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.

Nhìn lại Cương lĩnh năm 2011, có thể nói, nhận thức mới của Đảng ta về văn hóa thể hiện chủ yếu ở việc đánh giá đầy đủ hơn vai trò, vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội và trong mối tương quan với các lĩnh vực khác; nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn các vấn đề về phát triển con người trong mối liên hệ chặt chẽ với văn hóa. Những nhận thức mới ấy là sự kế thừa và phát triển sáng tạo những quan điểm, đường lối cơ bản của Đảng ta về văn hóa trong điều kiện hiện nay, khi đất nước đã có nhiều thay đổi, cuộc sống của nhân dân đã có những cải thiện quan trọng. Đó cũng chính là cơ sở để Đảng, Nhà nước ta đề ra và tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, chính sách cụ thể, đưa lại những kết quả to lớn trong xây dựng nền văn hóa và phát triển con người.

Những kết quả to lớn về xây dựng văn hóa trong 10 năm qua

Mười năm thực hiện Cương lĩnh năm 2011 đã mang lại cho đất nước ta những thay đổi to lớn về đời sống văn hóa, xây dựng con người. Các thế hệ con người Việt Nam, từ những lớp người sinh ra và trưởng thành trong đấu tranh cách mạng, đến những lớp người sinh ra và trưởng thành trong hòa bình đã kết nối truyền thống tốt đẹp, phát huy trí tuệ, tài năng, tính năng động, sáng tạo, làm chủ nhiều tiến bộ khoa học - công nghệ, thích ứng nhanh chóng với cơ chế kinh tế mới, vượt qua những thử thách, khó khăn, chung sức xây dựng đất nước. Cơ đồ, diện mạo đất nước, vị thế quốc tế, mối quan hệ rộng lớn với các quốc gia trên thế giới hiện nay, chính là bằng chứng rõ ràng, biểu hiện sinh động, tập trung nhất cho tinh thần, sức mạnh và khát vọng phát triển của văn hóa, con người Việt Nam. Đó cũng là hệ quả tất yếu của sự đổi mới trong nhận thức, đổi mới chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, tạo điều kiện ngày càng tốt hơn, thuận lợi hơn cho sự phát triển toàn diện của văn hóa và con người Việt Nam.

Trước hết, thể chế bảo đảm cho quyền, lợi ích chính đáng, sự phát triển của con người ngày càng được hoàn thiện theo nguyên tắc “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”. Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa các quyền, các điều kiện bảo đảm lợi ích chính đáng của con người. Nhiều bộ luật, luật được xây dựng hoặc sửa chữa bổ sung, liên quan đến quyền tự do sáng tạo, quảng bá các giá trị văn hóa, nghệ thuật; quyền tự do và trách nhiệm trong hoạt động báo chí, truyền thông; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tiếp cận thông tin và thực hành dân chủ... Các dự án phát triển kinh tế không chỉ được đánh giá về tác động môi trường, mà còn phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu bảo đảm cải thiện cuộc sống cho người dân có liên quan.

Những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới xây dựng, phát triển đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã giúp cho đời sống vật chất được cải thiện không ngừng - một điều kiện cơ bản, hàng đầu bảo đảm cho sự phát triển của con người Việt Nam. Thu nhập bình quân đầu người trong cả nước năm 2020 đã tăng hơn 2 lần so với thời điểm năm 2010(4). Đầu tư của Nhà nước cho khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, nhất là đường giao thông, hạ tầng giáo dục, được quan tâm hơn. Tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước từ 14,2% giảm còn dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều). Chương trình xây dựng nông thôn mới đã đạt được những kết quả quan trọng, thực sự góp phần cải thiện toàn diện cuộc sống của cư dân nông thôn. Dịch vụ y tế ngày càng được nâng cao về chất lượng, thuận lợi về điều kiện tiếp cận. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng nhanh, từ 60,9% năm 2010 lên 90,7% năm 2020. Chỉ số phát triển con người của Việt Nam được cải thiện từng năm, thuộc nhóm nước có chỉ số phát triển con người trung bình cao của thế giới. Công tác bảo vệ môi trường sống, ứng phó với những nguy cơ từ an ninh phi truyền thống, như nước biển dâng, thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường... được chú trọng, bắt đầu từ hoàn thiện thể chế, chính sách đến việc dự báo, phát hiện và xử lý kịp thời.

Đời sống tinh thần của con người Việt Nam ngày càng được cải thiện, phong phú và toàn diện hơn. Mạng lưới giáo dục quốc dân được tăng cường, cơ sở hạ tầng giáo dục được cải thiện, đội ngũ nhà giáo được phát triển, có nhiều chính sách bảo đảm cho mọi người dân đều có quyền, khả năng được hưởng thụ nền giáo dục suốt đời. Sự phát triển của hệ thống giáo dục và đào tạo không chỉ góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội, mà còn là một yếu tố quan trọng góp phần hình thành nhân cách, lối sống cho thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện rộng rãi với những chế định bảo đảm ngày càng chặt chẽ. Việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở đã đóng góp tích cực vào việc thực hiện quyền làm chủ của người dân, bảo vệ những quyền và lợi ích chính đáng của họ trong các quyết định về kinh tế - xã hội ở các địa phương. Việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã thúc đẩy sự hình thành văn hóa đảng, văn hóa trong chính trị, với nội dung cơ bản là tôn vinh và bảo vệ sự trong sạch, vững mạnh, các đức tính cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, gương mẫu đi đầu trước nhân dân của cán bộ, đảng viên và toàn hệ thống chính trị. Hàng loạt các phong trào, như “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, xây dựng gia đình văn hóa mới, văn hóa công sở, văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân... đã góp phần tạo nên chuyển biến to lớn trong xây dựng con người, ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực, xuống cấp về đạo đức xã hội, tạo lập môi trường xã hội lành mạnh, tích cực.

Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được đẩy mạnh không chỉ vạch mặt, chỉ tên những kẻ lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong bộ máy hệ thống chính trị để thu lợi bất chính dưới mọi hình thức, không chỉ nhằm thu lại những tài sản của Nhà nước, của nhân dân bị thất thoát, mà quan trọng hơn là qua đó lấy lại và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, là đưa ra “gương xấu” để răn đe, giáo dục về đạo đức công vụ cho chính đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Quan điểm đổi mới của Đảng về tự do tôn giáo, tín ngưỡng và tự do không tôn giáo, tín ngưỡng, về dân tộc, về an sinh, phúc lợi xã hội, được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp luật. Nhiều chủ trương, chính sách trong lĩnh vực văn hóa - xã hội được thực hiện. Các tín ngưỡng truyền thống được tôn trọng và phát huy ý nghĩa xã hội tốt đẹp. Các tôn giáo được hoạt động thuận lợi theo chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số được tạo điều kiện để phát triển kinh tế, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa bản sắc. An ninh, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Đời sống vật chất, tinh thần và an sinh xã hội của đồng bào các tôn giáo, các dân tộc thiểu số được cải thiện.

Các hoạt động văn hóa, như văn học, nghệ thuật, thư viện, bảo tồn, phát huy di sản văn hóa, đều được quan tâm phát triển, có những công trình, tác phẩm có giá trị, có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc. Chỉ tính riêng năm 2019, 59 nhà xuất bản trong cả nước đã xuất bản trên 33.000 đầu sách với 400 triệu bản in, hàng nghìn sách điện tử đã được phát hành. Hệ thống báo chí, truyền thông đại chúng phát triển nhanh, ngày càng hiện đại. Hàng trăm kênh phát thanh, truyền hình đang hoạt động, trong đó có nhiều kênh kết nối, hợp tác quốc tế. Theo số liệu thống kê năm 2019, ở Việt Nam đang có 64 triệu người sử dụng in-tơ-nét, chiếm 66% dân số, 143,3 triệu thuê bao điện thoại, bằng 148% dân số, trong đó phần lớn người dân sử dụng điện thoại thông minh, loại phương tiện có thể truy cập in-tơ-nét mọi nơi, mọi lúc trên lãnh thổ Việt Nam. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại tạo điều kiện mở và thuận lợi cho người dân Việt Nam có nhiều cơ hội để mở mang tri thức, giao lưu, kết nối văn hóa với các dân tộc, các nền văn hóa trên thế giới. Hoạt động thể dục, thể thao quần chúng, thể thao thành tích cao đều có sự mở rộng, đạt nhiều kết quả tích cực.

Có thể nói, những kết quả xây dựng, phát triển nền văn hóa trong 10 năm qua là rất to lớn, toàn diện. Những kết quả ấy, trước hết là hệ quả trực tiếp của đường lối đổi mới của Đảng về phát triển văn hóa thể hiện trong Cương lĩnh năm 2011. Đồng thời, những kết quả đó cũng bắt nguồn từ những nguồn cội văn hóa tốt đẹp của dân tộc và sự lao động sáng tạo với khát vọng phát triển của mỗi người dân.

Hướng đi cho văn hóa Việt Nam trong thời gian tới

Cùng với những kết quả to lớn trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh năm 2011, lĩnh vực văn hóa cũng đạt được nhiều thành tựu, tuy nhiên lĩnh vực này cũng còn không ít hạn chế.

Nhận thức về văn hóa và mối quan hệ giữa xây dựng văn hóa với phát triển con người, về vai trò, vị trí của văn hóa trong xây dựng, phát triển đất nước, có nơi, có lúc chưa đầy đủ, chưa sâu sắc. Triển khai đường lối xây dựng văn hóa của Đảng trong Cương lĩnh và các nghị quyết Đại hội Đảng chưa thật đồng bộ và toàn diện. Một số cấp ủy đảng, chính quyền còn lúng túng trong việc thể chế hóa yêu cầu coi văn hóa ngang bằng với chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh. Việc xây dựng và xác định hệ giá trị chuẩn mực văn hóa, con người Việt Nam còn chậm, kéo theo sự lúng túng, không thống nhất trong việc xây dựng các quy định, chuẩn mực văn hóa trong chính trị, kinh tế, trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị.

Trong thực tiễn, tình hình tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội tuy đã được cải thiện, song vẫn còn diễn biến phức tạp. Hưởng thụ văn hóa giữa đô thị với nông thôn, giữa đồng bằng, trung du với khu vực vùng sâu, vùng xa còn chênh lệch. Tệ nạn xã hội, tội phạm còn phức tạp, tồn tại nhiều hiện tượng trái với thuần phong, mỹ tục, làm cho môi trường văn hóa chưa thật lành mạnh. Những kết quả trong hoạt động văn học, nghệ thuật, trong bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, chưa theo kịp yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển nhanh nhưng chưa hợp lý; còn có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích trong một số cơ quan, đơn vị; công tác quản lý các phương tiện truyền thông mới chưa chặt chẽ, nhiều thông tin tiêu cực, sai trái trên mạng in-tơ-nét và các kênh truyền thông xã hội gây nhiễu loạn nhận thức, bức xúc cho người dân. Đấu tranh phản bác các tư tưởng sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, các truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc còn nhiều hạn chế. Nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao cho lĩnh vực văn hóa còn nhiều hạn chế, bất cập. Hợp tác quốc tế về văn hóa hiệu quả chưa cao, chưa theo kịp yêu cầu phát triển. 

Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên đây chủ yếu là do một số cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này, dẫn đến lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và trong một số trường hợp thiếu khả thi. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và còn dàn trải. Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả. Chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. 

Từ yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới, trên cơ sở nghiên cứu, xem xét tình hình và kết quả thực hiện Cương lĩnh năm 2011, có thể gợi ý một số phương hướng xây dựng nền văn hóa đất nước trong thời gian tới.

Thứ nhất, cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ hơn, quán triệt sâu sắc hơn đường lối về “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, trở thành “nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước”; về mối quan hệ chặt chẽ giữa xây dựng văn hóa với xây dựng con người, phát triển “văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa”. Trên cơ sở đường lối chung của Đảng, tiếp tục nghiên cứu, làm rõ nội dung phát triển văn hóa, cơ chế vận hành các mối quan hệ giữa văn hóa với con người và các lĩnh vực khác trong xã hội, phương pháp ứng dụng, giải quyết trong thực tế các nhiệm vụ phát triển văn hóa và con người.

Thứ hai, chú trọng nhiều hơn, thiết thực hơn việc tổ chức thực hiện đường lối của Đảng về xây dựng văn hóa, phát triển con người Việt Nam. Trong tổ chức thực hiện, phải tiến hành đồng bộ các khâu, từ cụ thể hóa đường lối, xây dựng các chính sách, xây dựng và hoàn thiện thể chế, tổ chức bộ máy, đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, phương thức quản lý của các cơ quan nhà nước, cho đến việc bảo đảm nguồn lực con người, đầu tư tài chính, chế độ đãi ngộ, khen thưởng, các điều kiện liên quan. Ví dụ, để thực hiện được việc “đặt văn hóa ngang bằng với chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại”, vấn đề không chỉ là hiểu rõ quan điểm, đầu tư tài chính là đủ, mà trước hết phải có thể chế rõ ràng, đầy đủ, có quyết tâm chính trị, có các biện pháp cụ thể... Muốn xây dựng một khu công nghiệp, thực hiện một dự án phát triển kinh tế, phải quy định ràng buộc việc giải quyết được các yêu cầu về văn hóa, con người, như nhà ở, trường học, nhà trẻ, dịch vụ y tế, khu vui chơi, giải trí... Muốn quản lý tốt thông tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng mới, không thể không quy định rõ các điều kiện phát thông tin, quyền và trách nhiệm người phát tin...

Thứ ba, xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển toàn diện về văn hóa trong thời kỳ mới, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, phù hợp với các điều kiện cụ thể của thời kỳ mới, đặc biệt là sự phát triển vũ bão của mạng in-tơ-nét và các mạng truyền thông xã hội. Sớm nghiên cứu, xác định hệ thống giá trị văn hóa và con người Việt Nam làm cơ sở, chỗ dựa cho việc xây dựng các chuẩn mực văn hóa trong chính trị, trong kinh tế, trong các cộng đồng dân cư... Có chính sách phát triển toàn diện các trụ cột văn hóa, như xây dựng đời sống văn hóa mới; thúc đẩy các hoạt động sáng tạo, văn học, nghệ thuật; xây dựng môi trường văn hóa tích cực; phát triển công nghiệp văn hóa; bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; phát triển thể dục, thể thao quần chúng và thể thao thành tích cao.

Thứ tư, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, có nhân cách, lối sống tốt đẹp, có kỹ năng lao động sáng tạo và khát vọng phát triển vươn lên mạnh mẽ. Tăng cường thực hành dân chủ, bảo vệ quyền con người, lợi ích chính đáng của người dân, đồng thời với nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ với đất nước, giữ nghiêm trật tự, kỷ cương xã hội. Phát triển đồng bộ các yếu tố, điều kiện bảo đảm cho con người có điều kiện phát triển toàn diện, được hưởng thụ các phúc lợi, dịch vụ ngày càng tốt hơn, như gia đình, hệ thống giáo dục, hệ thống y tế, các công trình phúc lợi về văn hóa, thể dục, thể thao, vui chơi giải trí...

Thứ năm, phát triển nền công nghiệp văn hóa phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và tính chất văn hóa Việt Nam, cùng với việc xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh. Thúc đẩy các hoạt động giao lưu nhân dân, hợp tác văn hóa quốc tế với tinh thần chủ động hội nhập quốc tế và tiếp thu có chọn lọc các giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại, truyền bá rộng rãi các giá trị văn hóa tốt đẹp của Việt Nam ra thế giới.

Công cuộc xây dựng, phát triển đất nước đang bước vào một thời kỳ mới, đó là sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự vận động hết sức mau lẹ của các tiến trình kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, sự biến động nhanh chóng trong các mối quan hệ, kết nối khu vực và toàn cầu... Tình hình đó đặt ra những yêu cầu cao về bản lĩnh chính trị, khát vọng phát triển, đổi mới sáng tạo. Trong điều kiện ấy, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và phát triển con người toàn diện, càng có ý nghĩa to lớn, quan trọng. Bởi, đó chính là tăng cường nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh, bệ đỡ bền vững nhất cho sự phát triển của đất nước./.

----------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 187
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 81
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 93
(4) Tất cả các số liệu về kinh tế - xã hội Việt Nam trong bài viết này đều lấy từ “Tóm tắt Dự thảo Báo cáo tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030”

 

GS, TS. TẠ NGỌC TẤN

Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày