Việc hình thành các yếu tố thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đi liền với tiến trình chuyển đổi cơ chế vận hành nền kinh tế.
Về phát triển các loại hàng hóa, dịch vụ. Xuất phát điểm từ chỗ hàng hóa thiết yếu vô cùng khan hiếm những năm đầu Đổi mới, từng bước có sự tham gia của các chủ thể sản xuất kinh doanh đa dạng, yếu tố hàng hóa hiện nay hết sức đa dạng. Hầu hết các nhu cầu cơ bản, nâng cao đều được đáp ứng. Lưu thông hàng hóa giữa các vùng miền, địa phương trong nước cũng như giữa Việt Nam và thế giới ngày càng phong phú, lưu chuyển nhanh. Hàng hóa của Việt Nam hiện không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà đã vươn ra gần 200 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Đi liền với đó, các dịch vụ với tư cách là các hàng hóa vô hình cũng ngày càng phát triển, từ dịch vụ cho sản xuất cho đến dịch vụ cho tiêu dùng cá nhân và các hộ gia đình. Chất lượng dịch vụ ngày càng được nâng cao, góp phần cải thiện không ngừng đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, các dịch vụ nhiều chủng loại của Việt Nam đã tham gia vào đáp ứng nhu cầu đi lại, hưởng thụ, thuận tiện hóa ngày càng cao của người dân Việt Nam cũng như người dân nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Sự phát triển ngoạn mục, bùng nổ của các loại hình dịch vụ trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN còn thúc đẩy sự hình thành các quan hệ phân công lao động và thúc đẩy hội nhập ngày càng sâu rộng. Quá trình này từng bước củng cố vị thế, tiềm lực quốc gia, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế của Việt Nam.
Về phát triển các yếu tố giá cả, tiền tệ. Giá cả của hầu hết các chủng loại hàng hóa, dịch vụ đến nay đã cơ bản vận hành và được xác định theo các nguyên tắc của thị trường, do thị trường quyết định. Cơ cấu giá cả, các thức xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ từ chỗ do nhà nước quyết định đã được xác định bởi các quan hệ thị trường. Nhà nước không can thiệp vào sự hình thành giá cả của các chủng loại hàng hóa, dịch vụ.
Đồng thời, các hình thức tiền tệ và sự thuận tiện hóa trong thanh toán, giao dịch của các chủ thể trên thị trường ngày càng phát triển phong phú; các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng được ưa chuộng, phù hợp với xu thế phát triển của thương mại điện tử, kinh tế số. Từ chỗ chỉ dùng tiền mặt, đến nay các chủ thể tiêu dùng, sản xuất kinh doanh và cung ứng hàng hóa dịch vụ có thể sử dụng nhiều hình thức thanh toán. Từ chỗ giao dịch thanh toán nội địa, đến nay đã có thể sử dụng các phương tiện thanh toán, lưu thông gắn kết với các quốc gia, vùng lãnh thổ mà Việt Nam đã thiết lập quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư.
Về cung - cầu, cạnh tranh. Về tổng thể, ngoại trừ các thời điểm chịu tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới hoặc đại dịch COVID-19, thị trường hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam luôn giữ được sự ổn định, ít chao đảo và không có biến động lớn. Các lực lượng cung - cầu trên thị trường thường xuyên được bổ sung, mở rộng theo đà phát triển của cộng đồng doanh nghiệp, của mức cải thiện thu nhập từ các tầng lớp dân cư. Qua gần 40 năm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, chưa có thời điểm nào cung - cầu rơi vào trạng thái mất kiểm soát trên phạm vi hệ thống.
Bên cạnh đó, môi trường cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong hơn ba thập kỷ vừa qua không ngừng được cải thiện. Từng bước hoàn thiện các thể chế về kiểm soát, chống độc quyền, thúc đẩy lành mạnh hóa môi trường kinh doanh; cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN từng bước tiệm cận với trình độ đồng bộ và hiện đại.
THÀNH TỰU VỀ HÌNH THÀNH ĐỒNG BỘ, HIỆN ĐẠI CÁC LOẠI THỊ TRƯỜNG
So với lịch sử phát triển kinh tế thị trường của thế giới, kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam có lịch sử phát triển chưa đầy 40 năm. Tuy vậy, các loại thị trường và mức độ hiện đại trong vận hành các loại thị trường ở Việt Nam hiện nay không quá thua kém so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Về tính đồng bộ. Xét về chủng loại, sự hiện diện của các loại thị trường (hàng hóa, dịch vụ, bất động sản, các yếu tố sản xuất, khoa học và công nghệ, tài chính, chứng khoán, lao động...) đã làm cho nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đạt được tiêu chí đồng bộ. Tuy xét về nhiều mặt, cấu trúc và biểu hiện của từng loại thị trường còn không ít hạn chế, bất cập. Song, với khoảng thời gian hình thành và phát triển chưa đầy 4 thập kỷ, việc đạt được sự đồng bộ các loại thị trường là thành tựu đáng được ghi nhận. Nhờ sự đồng bộ đó làm cho nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng sống động.
Về tính hiện đại trong vận hành các loại thị trường. Có thể nói, đối với những hình thái thị trường cao cấp như tài chính, chứng khoán, công nghệ... các loại thị trường này hiện nay đã cơ bản thể hiện mặt bằng phát triển của hệ thống thị trường khu vực và từng bước bắt nhịp được với trình độ vận hành của các nước tiên tiến. Do yêu cầu của hội nhập, các loại thị trường và các hình thái thị trường đã không khu biệt và bó hẹp trong phạm vi quốc gia, mà đã hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, đã và đang từng bước có sự liên thông chặt chẽ với thị trường khu vực và thế giới.
THÀNH TỰU VỀ TỪNG BƯỚC VẬN HÀNH THÔNG SUỐT CÁC QUAN HỆ THỊ TRƯỜNG, THỰC HIỆN TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1. Về quan hệ nhà nước - thị trường - xã hội
Thứ nhất, xác định ngày càng rõ hơn vai trò quản lý nhà nước.
Từng bước xác định giới hạn, phạm vi, nội dung và phương thức quản lý nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, quản lý nhà nước về kinh tế là một yêu cầu khách quan và phải tuân thủ các nguyên tắc chung của quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường như mọi quốc gia khác. Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế nhằm mục tiêu hạn chế và khắc phục những thất bại của thị trường. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, thị trường có thể hoạt động không hiệu quả bởi các rào cản do các chính sách tạo ra. Khi ấy, Nhà nước phải loại bỏ các rào cản đối với việc ra đời, phát triển, hoàn thiện các yếu tố thị trường (quan hệ cung - cầu; người mua - người bán, người sản xuất - người tiêu dùng, giá cả, thông tin thị trường...), các loại thị trường (hàng hóa, dịch vụ; sức lao động, bất động sản; tài chính; khoa học - công nghệ...); tích cực xây dựng nền tảng thể chế và pháp lý hỗ trợ, thúc đẩy cho các thị trường ra đời và vận hành theo quy luật của nó; thừa nhận vai trò của thị trường trong sự phân bổ các nguồn lực phát triển. Nhà nước thực hiện các chính sách, biện pháp nhằm tạo lập thị trường, khuyến khích thị trường phát triển, cụ thể là:
Quá trình thực hiện các chức năng của Nhà nước. Nhà nước chú ý đến vai trò “bà đỡ” cho thị trường hình thành và phát triển, đồng thời xã hội hóa một số ngành, lĩnh vực trước đây được coi là độc quyền nhà nước, chuyển giao cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước đảm nhiệm (như: bưu chính viễn thông, cung cấp điện, xuất khẩu...) nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Ngoài ra, khi xã hội đạt tới sự phát triển cao hơn, Nhà nước có thể chuyển giao việc cung ứng nhiều dịch vụ xã hội cho các tổ chức xã hội, doanh nghiệp xã hội hay các đơn vị sự nghiệp hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận; hình thành thể chế về chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước.
Trong điều hành quản lý vĩ mô nền kinh tế. Nhà nước đã dần hạn chế tối đa mệnh lệnh hành chính để các hoạt động của thị trường diễn ra chủ yếu theo các quy luật thị trường, bảo đảm nguyên tắc thị trường “tự điều chỉnh”, đồng thời tăng cường quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN. Lấy thị trường làm cơ sở chủ yếu để phân bổ các nguồn lực kinh tế, kết hợp với điều tiết vĩ mô của Nhà nước bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và bằng các nguồn lực, các chính sách hướng quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hệ thống kinh doanh vào những lĩnh vực và địa bàn cần thiết.
Thứ hai, đổi mới phương thức quản lý, từ chỗ Nhà nước can thiệp trực tiếp vào thị trường sang Nhà nước quản lý vĩ mô, kiến tạo phát triển.
Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng: định hướng sự phát triển bằng những chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách trên cơ sở tôn trọng thị trường; tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát huy các nguồn lực cho phát triển; bảo đảm tính bền vững và tích cực các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của kinh tế thị trường; thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp.
Khung pháp lý cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, sử dụng và khai thác hiệu quả các nguồn lực xã hội đã từng bước được quy định và ban hành trong Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 cùng các luật như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thương mại... Khung pháp lý về tạo lập các thị trường và tạo điều kiện cho cơ chế thị trường vận hành có hiệu quả, thông suốt. Xóa bỏ cơ chế bao cấp, xây dựng cơ chế thị trường từ giá cả đến lưu thông hàng hóa, tự do hóa giao lưu hàng hóa từ nội đến ngoại thương.
Thứ ba, nhận thức rõ hơn về tính tất yếu khách quan phải đẩy mạnh phát triển các hình thức và cách thức thực hiện dân chủ, về vai trò của dân chủ trực tiếp, đề cao vai trò của dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội, sự đồng thuận xã hội và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Cụ thể hơn, trong mối quan hệ này, đã đạt được những kết quả quan trọng:
Nhà nước đã thực sự chú ý đến vai trò “bà đỡ” cho thị trường hình thành và phát triển. Đã thể chế hóa và tạo điều kiện cho quá trình hình thành và phát triển các loại thị trường; đã chủ động, tích cực hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và khu vực, quy mô giao dịch tăng cao. Đồng thời, “xã hội hoá” một số nhiệm vụ của Nhà nước; Nhà nước mở các ngành, lĩnh vực trước đây được coi là độc quyền, rút lui dần khỏi lĩnh vực kinh doanh không cần thiết và “nhường lại” cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước và các doanh nghiệp xã hội nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội(1).
Đã hình thành thể chế về chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước, bao gồm: 1) Phân biệt chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở. 2) Nhà nước “từ bỏ” hoạt động quản trị và can thiệp vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà tập trung thực hiện chức năng quản lý về kinh tế. 3) Tách bạch chức năng quản lý kinh tế vĩ mô và chức năng chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước, từng bước xoá bỏ “bộ chủ quản”, “chính quyền chủ quản” của doanh nghiệp nhà nước. Thể chế kinh tế mới hướng tới xác định quan hệ phù hợp giữa nhà nước - thị trường - xã hội theo nguyên tắc cơ chế thị trường.
Trong điều hành quản lý vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước đã dần hạn chế tối đa mệnh lệnh hành chính để các hoạt động của thị trường diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật thị trường. Thể chế định giá, nhất là giá cả hàng hóa, dịch vụ, đã được tự do hóa; giá cá hàng hóa, dịch vụ về cơ bản đã được quyết định bởi thị trường, theo quy luật thị trường. Cạnh tranh trên thị trường hàng hóa và dịch vụ ngày càng gia tăng; độc quyền trong kinh doanh, độc quyền thị trường và cạnh tranh không lành mạnh ngày càng được kiểm soát và có chiều hướng giảm.
Vai trò, chức năng của thị trường ngày càng được coi trọng. 1) Thị trường đã thực sự từng bước là căn cứ để Nhà nước định hướng phát triển kinh tế thông qua các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội. 2) Doanh nghiệp ngoài nhà nước tham gia cung ứng các dịch vụ xã hội. Hiện nay, Nhà nước thông qua cơ chế thị trường, đang chuyển sang khai thông tiềm năng của khu vực tư nhân, không phải với tư cách là một nguồn thay thế, mà là một nguồn bổ sung cho Nhà nước trong việc cung ứng kết cấu hạ tầng và các dịch vụ xã hội. 3) Thị trường là căn cứ để tạo khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ, nhất quán, minh bạch và vững chắc, không chỉ là một hệ thống luật lệ và quy định, mà còn bao hàm các định chế cần thiết để thực hiện và cưỡng chế việc thi hành pháp luật và giải quyết tranh chấp, bao gồm toà án và các cơ quan cưỡng chế thi hành luật. 4) Thị trường tham gia kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế, góp phần tạo ra sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế.
Cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Bản thân doanh nghiệp nhà nước cũng phải vận hành, hạch toán theo cơ chế thị trường. Đáng chú ý là việc tách chức năng đại diện chủ sở hữu với chức năng quản lý chung của Nhà nước thông qua thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Đây là thay đổi lớn, qua đó khắc phục những bất cập, hạn chế của mô hình thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước hiện nay. Chính phủ cũng đã đẩy mạnh cải cách, cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành góp phần đưa các doanh nghiệp nhà nước được tập trung nhiều hơn vào những lĩnh vực then chốt như quốc phòng - an ninh, cung ứng hàng hóa và dịch vụ công thiết yếu. Sau gần 25 năm cổ phần hóa, kể từ khi có Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX (năm 2001) đến nay, tuy vẫn còn chậm, song đã đạt được nhiều kết quả trong việc giảm số lượng doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, năng lực tài chính, quản trị và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước được nâng lên.
Khu vực tư nhân có sự phát triển mạnh trong các lĩnh vực pháp luật không cấm và tham gia cung ứng dịch vụ công. Đây là một trong những thành công của quá trình xử lý quan hệ “nhà nước - thị trường - xã hội” trong những năm vừa qua. Trên thực tế, vai trò kinh tế tư nhân trong nền kinh tế ngày càng được thừa nhận và có đóng góp ngày càng lớn xét trên tỷ lệ nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế, đóng góp thu ngân sách, tạo việc làm… Số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng mạnh với nhiều loại hình đa dạng; có những doanh nghiệp, tập đoàn lớn có khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Phát triển các doanh nghiệp xã hội và các hội tự quản. Điều này hoàn toàn phù hợp với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Từ khi khái niệm doanh nghiệp xã hội được biết đến vào những năm 2008 đến nay, doanh nghiệp xã hội đã phát triển đa dạng, có sức ảnh hưởng đến chính sách của Nhà nước và lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng. Hoạt động ươm tạo và hỗ trợ các doanh nghiệp xã hội cũng đạt được những kết quả nhất định. Nhiều sáng kiến kinh doanh tạo tác động xã hội tích cực góp phần tạo nên một hệ sinh thái năng động và đa dạng, hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp xã hội.
Bên cạnh các doanh nghiệp xã hội, với việc đẩy mạnh thực hiện dân chủ hóa cơ sở, nhiều mô hình tự quản khu dân cư phát triển đã góp phần nâng cao đời sống người dân. Đây là hướng quan trọng góp phần nâng cao vai trò thành tố xã hội trong tạo lập môi trường tăng trưởng, giám sát, bổ sung cho những khiếm khuyết của thị trường trong những năm qua.
Đã chú ý gắn bó hơn chức năng, nhiệm vụ của nhà nước - thị trường - xã hội, tức là có sự phân vai ngay trong quá trình xây dựng chủ trương, chính sách. Do vậy, tính khả thi chính sách cũng cao hơn, thu hút được sự quan tâm và đồng thuận của người dân; sự tham gia của doanh nghiệp và xã hội vào quá trình định hình chính sách ngày một rõ và hiệu quả.
2. Về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển vì con người
Đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách về sử dụng nguồn lực - ngân sách nhà nước, tư nhân và quốc tế cho công tác giảm nghèo ở các địa phương. Các chính sách (Chương trình 135; Quỹ xóa đói, giảm nghèo; Chương trình cho vay vốn...) đã đảm bảo kinh phí thực hiện các chính sách hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo, hộ cận nghèo theo tiêu chí thu nhập liên quan đến bảo hiểm y tế; miễn, giảm học phí; hỗ trợ chi phí học tập, nội trú; hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất, tiền điện... Bên cạnh thực hiện chính sách hỗ trợ theo tiêu chí thu nhập là những chính sách hỗ trợ theo tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản; tiếp tục tăng cường hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo sinh kế cho người nghèo, nhân rộng mô hình giảm nghèo thông qua bố trí kinh phí thực hiện các dự án cùng với huy động nguồn lực của hộ nghèo, cộng đồng, doanh nghiệp tham gia; trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số; hỗ trợ người dân thực hiện các dự án chăm sóc, bảo vệ và phát triển rừng...
Các doanh nghiệp cũng tham gia tích cực trong tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động. Các cá nhân và hộ gia đình nghèo đã có nhiều nỗ lực vươn lên thoát nghèo, thu hẹp khoảng cách sống giữa các vùng, miền, giữa nông thôn và thành thị.
Với việc thực hiện đúng đắn chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về mục tiêu xóa đói giảm nghèo; với những giải pháp phù hợp, công tác xóa đói giảm nghèo ở nước ta đã đạt được những kết quả khả quan. Tình trạng nghèo đói không ngừng giảm qua các năm; đời sống của những hộ sau khi thoát nghèo được cải thiện theo chiều hướng tích cực, tình trạng hộ đói, hộ nghèo triền miên không còn xảy ra.
Để khắc phục tình trạng giảm nghèo “thiếu bền vững”, ngoài sự nỗ lực của chính quyền địa phương, luôn rất cần sự tham gia tích cực của chính các gia đình, sự đồng thuận của cộng đồng doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và toàn thể xã hội. Chú trọng công tác tuyên truyền để thúc đẩy việc tiếp cận có hiệu quả các chính sách, dịch vụ xã hội… nhằm thoát khỏi vòng luẩn quẩn do nghèo đói mang lại./.
PGS. TS. NGÔ TUẤN NGHĨA
__________________
Bài viết là kết quả nghiên cứu của Đề tài KX.04.15/21-25.
(1) Xem: Vũ Văn Hà: Về mối quan hệ giữa nhà nước - thị trường - xã hội thời gian qua, Tạp chí Tổ chức nhà nước online, tháng 5/2019.
Theo baothuathienhue.vn